Hành chính, dân số Thời_kỳ_Bắc_thuộc_lần_thứ_ba

Hành chính

Năm 605, nhà Tùy đổi châu Giao thành quận Giao Chỉ, quận lỵ đặt tại huyện Giao Chỉ. Đồng thời, nhà Tùy đặt ra Phủ Đô hộ Giao Chỉ để cai trị Việt Nam. Chủ trương của nhà Tùy là thiết lập chế độ trung ương tập quyền, không phong cho tông thất và công thần, chỉ chuyên dùng quan lại cai trị.

Nhà Đường bãi bỏ các quận do nhà Tùy lập ra, khôi phục lại chế độ các châu nhỏ thời Nam Bắc triều. Năm 622, nhà Đường lập Giao châu đô hộ phủ. Người đứng đầu cơ quan này gọi là tổng quản.

Năm 679, nhà Đường đổi quận Giao Chỉ trở lại thành châu Giao, đặt ra Phủ Đô hộ Giao Châu. Bấy giờ, vùng Lĩnh Nam có 5 đô hộ phủ, cai quản châu Giao, châu Quảng, châu Quế, châu Dung, châu Ung, gọi chung là Lĩnh Nam ngũ quản.

Sau đó, nhà Đường đổi Phủ Đô hộ Giao Châu thành An Nam đô hộ phủ. Tên gọi An Nam trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ thời điểm này. Chức quan đứng đầu Phủ Đô hộ An Nam lúc đầu gọi là Kinh lược sứ, sau đổi thành Tiết độ sứ. Nhà Đường lại chia Giao Châu làm 12 châu, đứng đầu mỗi châu là viên quan thứ sử. 12 châu này lại được chia thành 59 huyện. Tên gọi 12 châu là:

  • Giao
  • Lục
  • Phúc Lộc
  • Phong
  • Thang
  • Trường
  • Chi
  • Vũ Nga
  • Vũ An
  • Ái
  • Hoan
  • Diễn

Năm 624, Đường Cao Tổ lại đổi các Phủ Đô hộ thành Phủ Đô đốc. Phủ Đô hộ An Nam thành Phủ Đô đốc An Nam. Năm 679, Đường Cao Tông lại đổi về tên cũ.

Năm 757, Đường Túc Tông đổi An Nam đô hộ phủ thành Trấn Nam đô hộ phủ. Chín năm sau (766) lại đổi về tên cũ.

Năm 863, nhà Đường bãi bỏ Phủ Đô hộ An Nam và lập Hành Giao Châu thay thế đóng tại nơi là Quảng Tây ngày nay. Nhưng chưa đầy 1 tháng thì cho tái lập Phủ Đô hộ An Nam nằm trong Hành Giao Châu.

Năm 866, nhà Đường đổi Phủ Đô hộ An Nam thành Tĩnh Hải quân.

Cương vực của nhà Đường qua những năm từ ổn định cho đến khi biến động.
Bản đồ cương vực nhà Đường. Bản đồ thể hiện lãnh thổ Đại Đường qua những biến cố thời gian,bắt đầu là năm Trinh Quán thứ nhất (627), Trinh Quán năm thứ 4 (640), Trinh Quán năm thứ 21 (647), Hiển Khánh năm thứ 5 (660), Long Sóc năm thứ 2 (662), Lân Đức năm thứ 2 (665), Tổng Chương nguyên niên (668), Hàm Hanh năm thứ 3 (672), Nghi Phượng năm thứ 4 (679), Khai Nguyên năm thứ 3 (715), Thiên Bảo năm thứ 10 (751), Nguyên Hòa năm thứ 15 (820), Đại Trung năm thứ 2 (848), Đại Trung năm thứ 3 (849), Càn Phù năm thứ 2 (875).

Dân số

Theo số liệu thống kê của nhà Đường, ở quận Giao Chỉ có 9 huyện 30.056 hộ; quận Cửu Chân có 7 huyện 16.135 hộ; quận Nhật Nam có 8 huyện 9.915 hộ, quận Ninh Việt ở phía đông bắc, gồm Khâm châu không rõ số dân; 3 quận mới chiếm của Lâm Ấp là quận Tỷ Ảnh có 4 huyện 1.815 hộ, quận Hải Âm có 4 huyện 1.100 hộ, quận Tượng Lâm có 4 huyện 1.220 hộ[1].